NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG KHÁNG KHÁNG SINH CỦA VI KHUẨN ESCHERICHIA COLI PHÂN LẬP TỪ THỊT GÀ VÀ THỊT LỢN TẠI SÓC SƠN, HÀ NỘI

Cam Thị Thu Hà, Hoàng Minh Đức, Phạm Hồng Ngân

Khoa Thú y, Học viện Nông nghiệp Việt Nam

1. Tính cấp thiết

         Hà Nội là nơi có mật độ dân số rất cao, là thủ đô với hơn 8 triệu người, xếp thứ 2 cả nước chỉ sau thành phố Hồ Chí Minh, mức tiêu thụ thực phẩm nhất là những thực phẩm tươi sống vô cùng lớn. Tuy nhiên thực tế hiện nay các loại thực phẩm có nguồn gốc từ động vật đặc biệt là thịt lợn, thịt gà được bày bán ở các khu tập trung đông dân cư, chợ và thậm chí trong các siêu thị đều không đảm bảo chất lượng (Hằng và cs, 2020). Đây là hai loại thịt được tiêu thụ nhiều nhất ở Việt Nam (Phương và cs, 2022), tuy nhiên lại là nguồn chứa vi khuẩn E. coli rất phổ biến, thịt có thể bị vấy nhiễm trong quá trình giết mổ, vận chuyển, bảo quản và khi bày bán (Sarter và cs, 2014). Giải pháp của vấn đề vệ sinh thực phẩm tươi sống và kháng kháng sinh ở các nước đang phát triển còn đang trong giai đoạn tiếp cận, Việt Nam cũng không ngoại lệ (Van và cs, 2008). Các loại siêu vi khuẩn đã xuất hiện do việc thiếu kiểm soát sử dụng kháng sinh trong sản xuất động vật cung cấp thực phẩm, nhất là trong chăn nuôi gà và lợn, áp lực chọn lọc đã khiến vi khuẩn mang các gen đa kháng thuốc ngày càng gia tăng, các yếu tố di truyền của chúng lây lan với tốc độ nhanh chóng, trở thành mối nguy tiềm ẩn đối với sức khỏe con người (Van và cs, 2008). E. coli cũng đã được phát hiện là một nguồn dự trữ đáng kể các gen kháng thuốc và độc lực (Sarter và cs, 2014). E. coli là vi khuẩn chỉ diểm vệ sinh quan trọng đối với thực phẩm có nguồn gốc động vật như thịt lợn và thịt gà. Các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng thịt bán lẻ có liên quan đến vấn đề truyền lây E. coli. Vì vậy việc giám sát ngộ độc thực phẩm do E. coli rất quan trọng để bảo vệ sức khỏe con người (Li và cs, 2021). Trong những năm gần đây, số chủng E. coli kháng kháng sinh phân lập từ vật nuôi, thực phẩm và con người ngày càng gia tăng, đặc biệt là các chủng kháng kháng sinh nhóm β-lactamase. E. coli kháng kháng sinh nhóm β-lactam cũng thường kháng với các loại kháng sinh khác bao gồm fluoquinolones, aminoglycoside và trimethoprim/sulfamethoxazole, dẫn đến tăng tỷ lệ mắc bệnh và tử vong, kéo dài thời gian nhập viện, tăng chi phí điều trị và ảnh hưởng đến kinh tế (Pitout, 2010; Perez và cs, 2007). Từ những thực trạng đáng báo động nói trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm xác định tỷ lệ nhiễm và tính kháng kháng sinh của vi khuẩn Escherichia coli phân lập từ thịt gà và thịt lợn trên địa bàn huyện Sóc Sơn, Hà Nội.

2. Phương pháp nghiên cứu

– Phương pháp thu thập mẫu: Quy trình lấy mẫu dựa vào Tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 4833-1:2002.

– Phương pháp phân lập vi khuẩn E. coli: Theo phương pháp mô tả của Zhao và cộng sự (2001)

– Phương pháp xác định khả năng kháng kháng sinh của các chủng E. coli: Phương pháp pha loãng và nồng độ ức chế tối thiểu theo hướng dẫn của Viện Tiêu chuẩn lâm sàng (CLSI, 2020).

– Phương pháp phát hiện khả năng sản sinh ESBL của vi khuẩn E. coli: Phương pháp kết hợp (Synergy test) theo hướng dẫn của Viện Tiêu chuẩn lâm sàng và Phòng thí nghiệm (CLSI, 2020)

– Phương pháp xử lý số liệu

Số liệu được tổng hợp, tính toán và vẽ đồ thị bằng phần mềm Microsoft Office Excel 2021

3. Kết quả nghiên cứu

         Kết quả kiểm tra 100 mẫu thịt tươi tại Huyện Sóc Sơn, Hà Nội tại thời điểm nghiên cứu cho thấy 73 (73%) mẫu phân lập được vi khuẩn E. coli. Trong đó, 35/50 (70%) mẫu thịt gà và 38/50 (76%) mẫu thịt lợn dương tính với vi khuẩn E. coli. Vi khuẩn E. coli phân lập được có tỷ lệ kháng cao nhất đối với florfenicol (86,3%), tiếp theo là ampicillin và tetracycline (83,56%); streptomycin (68,49%), nalidixic acid (63,01%), trimethoprim/sulfamethoxazole (56,16%). Trong đó, các chủng vi khuẩn E. coli phân lập từ thịt gà kháng cao nhất với ampicillin và tetracycline (80%), các chủng phân lập được từ thịt lợn kháng cao nhất với kháng sinh florfenicol (97,37 %) và tỉ lệ kháng kháng sinh ampicillin và tetracycline cũng ở mức cao hơn so với thịt gà (86,84%). Kiểu hình kháng kháng sinh của các chủng E. coli phân lập được trong nghiên cứu này rất đa dạng. Nghiên cứu ghi nhận được tổng cộng 54 kiểu hình kháng kháng sinh khác nhau, trong đó kiểu hình kháng “Amp-Str-Tet-Flo-Nal-Sxt” là phổ biến nhất, biểu hiện ở 5 chủng với tỉ lệ 6,85%. Tiếp theo là kiểu hình Amp-Str-Tet-Flo-Sxt và Amp-Gen-Str-Tet-Flo-Cip-Nal-Sxt với tỉ lệ 4,11%. Các kiểu hình khác chỉ biểu hiện ở 1 đến 2 chủng vi khuẩn. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng 12/73 (16,44%) chủng vi khuẩn E. coli có khả năng sản sinh men ESBL. Trong đó, 7/35 (20%) chủng phân lập từ thịt gà và 5/38 (13,16%) chủng phân lập từ thịt lợn dương tính với ESBL.

4. Kết luận:

         Tỉ lệ nhiễm và tính kháng kháng sinh của vi khuẩn E. coli trên thịt gà và thịt lợn thu thập tại chợ thuộc huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội đều ở mức cao. Từ sức đề kháng cao với kháng sinh của vi khuẩn E. coli phân lập từ thịt, có thể đề xuất người chăn nuôi nên tăng cường các biện pháp quản lý tốt trong sản xuất để hạn chế xuất hiện các bệnh phải sử dụng kháng sinh. Đồng thời, có những biện pháp kiểm soát chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm nguồn gốc động vật.

Từ khóa: vi khuẩn E. coli, kháng kháng sinh, thịt gà, thịt lợn.

Link bài báo: Tạp chí khoa học thú y, tập XXXI, Số 1, 2024.