Trương Quang Lâm* , Nguyễn Thị Lan, Đào Lê Anh, Nguyễn Thị Hoa, Nguyễn Thị Thu Hương
Phòng thí nghiệm trọng điểm CNSH Thú y, Khoa Thú y, Học viện Nông nghiệp Việt Nam
Tính cấp thiết: Dịch tả lợn châu Phi (DTLCP) là bệnh truyền nhiễm nguy hiểm do virus ASFV gây ra với tỷ lệ chết có thể lên tới 100%, hiện chưa có thuốc điều trị đặc hiệu hay vaccine thương mại hiệu quả. Kể từ khi được phát hiện lần đầu tại Việt Nam vào tháng 2 năm 2019, dịch bệnh đã nhanh chóng lan rộng ra toàn bộ 63 tỉnh, thành phố, buộc phải tiêu hủy hơn 6 triệu con lợn chỉ trong vòng hơn một năm, gây thiệt hại nghiêm trọng cho ngành chăn nuôi và đe dọa an ninh lương thực quốc gia. Trong khi trên thế giới, nhiều chủng ASFV độc lực cao đã được phân lập và nghiên cứu phục vụ sản xuất vaccine, thì tại Việt Nam các nghiên cứu về phân lập và đánh giá độc lực của virus còn rất hạn chế. Việc nghiên cứu, xác định đặc điểm sinh học và độc lực của các chủng virus lưu hành trong nước là hết sức cấp thiết, nhằm có cơ sở khoa học cho việc chọn lọc chủng thích hợp phục vụ nghiên cứu chế tạo vaccine phòng bệnh. Chủng virus VNUA – ASFV – L01 được phân lập tại tỉnh Hà Nam trong đợt dịch năm 2019 mang ý nghĩa quan trọng, bởi kết quả đánh giá độc lực của nó sẽ cung cấp dữ liệu nền ban đầu, góp phần định hướng các nghiên cứu sâu hơn về cơ chế gây bệnh, chọn lọc và phát triển vaccine phòng chống DTLCP tại Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu: Trong nghiên cứu này, các tác giả sử dụng chủng virus dịch tả lợn châu Phi VNUA – ASFV – L01, được phân lập từ mẫu lách lợn bệnh tại tỉnh Hà Nam năm 2019.
Lợn thí nghiệm là lợn 6–7 tuần tuổi, khỏe mạnh, âm tính với các bệnh PRRS, dịch tả lợn cổ điển, circovirus type 2 và ASFV. Virus được nuôi cấy trên tế bào đại thực bào phế nang lợn (PAM), xác định hiệu giá bằng phương pháp pha loãng thập phân và tính theo Reed & Muench. DNA tổng số được tách chiết từ mẫu lách và dịch nuôi cấy bằng hệ thống tự động, sau đó tiến hành phát hiện virus bằng kỹ thuật Realtime PCR với cặp mồi probe p72 và PCR thường để khuếch đại gen P72, giải trình tự và phân tích phát sinh chủng loài.
Trong thí nghiệm gây nhiễm, bốn lợn được tiêm bắp gốc tai với liều 2ml/con, hiệu giá 104 HAD50 trong khi lợn đối chứng được nuôi riêng biệt. Các chỉ tiêu như thân nhiệt, triệu chứng lâm sàng được theo dõi hằng ngày; mẫu máu, phân và dịch nước bọt được lấy định kỳ để kiểm tra sự xuất hiện và nhân lên của virus bằng Realtime PCR.
Khi lợn chết, tiến hành mổ khám để quan sát và ghi nhận các bệnh tích đại thể. Toàn bộ số liệu về triệu chứng, thân nhiệt, bệnh tích và kết quả PCR được tổng hợp và xử lý bằng phần mềm Excel để phân tích.
Kết quả nghiên cứu: Kết quả nghiên cứu cho thấy, sau khi gây nhiễm với chủng virus VNUA – ASFV – L01, tất cả lợn thí nghiệm đều xuất hiện triệu chứng lâm sàng điển hình của dịch tả lợn châu Phi. Cụ thể, lợn bắt đầu sốt cao từ ngày thứ 2 sau gây nhiễm, thân nhiệt dao động 40–42°C, kèm theo các biểu hiện mệt mỏi, bỏ ăn, khó thở, xuất huyết ngoài da, một số con có triệu chứng thần kinh và hôn mê trước khi chết.
Tất cả bốn lợn thí nghiệm chết trong khoảng 7–9 ngày sau gây nhiễm, trong khi lợn đối chứng vẫn khỏe mạnh. Bệnh tích đại thể quan sát được khi mổ khám cho thấy các tổn thương điển hình như hạch lympho sưng đen và xuất huyết, lách sưng to thấm dịch màu đen, thận sưng và xuất huyết điểm, màng não và cơ tim xuất huyết, gan và túi mật sưng, cùng hiện tượng viêm tích dịch xoang ngực, xoang bụng và bao tim.
Kết quả Realtime PCR khẳng định virus đã có mặt trong máu từ ngày thứ 2 sau gây nhiễm và nhân lên mạnh từ ngày thứ 3 đến ngày thứ 6. Đồng thời, virus bắt đầu được thải ra môi trường qua dịch nước bọt và phân từ ngày thứ 3–5 và kéo dài liên tục cho đến khi lợn chết. Những kết quả này chứng tỏ chủng VNUA – ASFV – L01 có độc lực rất cao, gây bệnh thể cấp tính với tỷ lệ chết 100% trên lợn thí nghiệm.
Từ khóa của bài báo: Virus dịch tả lợn châu Phi, độc lực, triệu chứng lâm sàng, bệnh tích đại thể, virus huyết, bài thải.
Link bài báo: https://tapchi.vnua.edu.vn/wp-content/uploads/2020/07/tap-chi-so-7.1.6.pdf


English