Tiếp tục chương trình kỳ họp thứ bảy, thảo luận tại hội trường sáng 29-5, đại biểu Quốc hội Nguyễn Thị Lan (Đoàn thành phố Hà Nội) bày tỏ quan tâm các giải pháp của Chính phủ nhằm phát triển kinh tế nông nghiệp, đặc biệt là vấn đề giảm phát thải khí nhà kính và giao dịch tín chỉ carbon.
Đại biểu Nguyễn Thị Lan cho rằng, đây là vấn đề rất quan trọng, phải được quan tâm kịp thời, thường xuyên để đảm bảo môi trường tự nhiên, ổn định đời sống kinh tế, đặc biệt là giúp nông nghiệp Việt Nam vượt qua thách thức hiển nhiên của cuộc cách mạng chuyển đổi xanh toàn cầu, tiếp tục giữ được vị thế quan trọng trong bản đồ an ninh lương thực thế giới.
Đại biểu dẫn thống kê, nông nghiệp là ngành tạo ra phát thải lớn -khoảng 100 triệu tấn CO2 quy đổi, chiếm 30% tổng lượng phát thải khí nhà kính của Việt Nam. Trong đó, trồng lúa chiếm 50%, chăn nuôi phát thải 19%…
Để thực hiện cuộc cách mạng xanh toàn cầu và thực hiện cam kết Net zero về phát thải khí nhà kính, nhiều quốc gia trên thế giới (nhiều nước được coi là thị trường xuất khẩu nông sản của Việt Nam) đã xây dựng các rào cản kỹ thuật về giảm phát thải khí nhà kính, hướng tới phát triển xanh, bền vững.
Khoảng 30 nước trên thế giới đã triển khai tính thuế carbon. Cụ thể từ tháng 1-2025, Việt Nam muốn xuất khẩu nông sản vào một số thị trường cần chứng minh hàng hóa đó không xuất phát từ việc phá rừng. Từ tháng 1-2026, hàng rào kỹ thuật về phát thải carbon sẽ được áp dụng ở một số thị trường của nông sản Việt Nam.
Để giúp người dân hiểu sâu sắc về giá trị to lớn cũng như thách thức của việc giảm phát thải khí nhà kính và thị trường tín chỉ carbon, đại biểu cho rằng cần tuyên truyền sâu rộng nội dung này. Trong đó, giao các trường đại học, học viện nông nghiệp xây dựng các chương trình đào tạo nâng cao nhận thức, cung cấp kiến thức cơ bản về thị trường tín chỉ carbon cho người dân, doanh nghiệp, hợp tác xã, giảng dạy cho sinh viên đại học và học sinh phổ thông.
Đặc biệt, cần nghiên cứu sâu sắc tác động của quy định thị trường tín chỉ carbon của một số quốc gia đến việc xuất khẩu nông sản Việt Nam khi quy định này được áp dụng từ tháng 1-2026, từ đó đưa ra các giải pháp ứng phó phù hợp, hỗ trợ người dân và doanh nghiệp.
Sớm hoàn thiện hệ thống công trình trữ nước ngọt Vùng đồng bằng sông Cửu Long
Liên quan vấn đề nông nghiệp, đại biểu Trần Văn Sáu (Đoàn Đồng Tháp) cho biết: Người dân Vùng đồng bằng sông Cửu Long đang hết sức lo lắng khi sống chung với lũ, giờ lại sống chung với hạn hán, xâm nhập mặn, sạt lở luôn rình rập. Đại biểu đề nghị, Chính phủ quan tâm nghiên cứu và có chính sách thực hiện một số giải pháp mà các nhà khoa học đã khuyến cáo về tăng cường đầu tư xây dựng hệ thống quan trắc, giám sát, nâng cao năng lực dự báo thường xuyên, chính xác để kịp thời ứng phó, khuyến cáo bà con thay đổi tập quán sản xuất, chuyển đổi cây trồng, vật nuôi cho phù hợp.
Đặc biệt, Chính phủ cần có giải pháp ưu tiên hơn nữa các nguồn vốn, khẩn trương xây dựng và hoàn thiện hệ thống công trình trữ nước ngọt, nhất là vùng Tứ giác Long Xuyên, vùng Đồng Tháp Mười.
“Đây được xem là giải pháp trước mắt cũng như lâu dài. Đồng thời, cần sớm triển khai quy hoạch cấp nước cho vùng, đảm bảo hệ thống cấp nước sinh hoạt cho người dân”, đại biểu Trần Văn Sáu nhấn mạnh.
trích: Hà Nội mới