Dự đoán thời gian chảy sản dịch sau sinh ở lợn nái

PREDICTION OF  POSTPARTUM  VAGINAL  DISCHARGE  DURATION  IN SOWS

Nguyễn Hoài Nam1, Bùi Trần Anh Đào1*, Peerapol  Sukon 2,3
1Khoa Thú y, Học viện Nông nghiệp Việt Nam
2Khoa Thú y, Đại học Khon Kaen, Thái Lan
3 Đại học Khon Kaen, Thái Lan

Tính cấp thiết

              Sau khi đẻ, tử cung tiếp tục co bóp để tống phần nhau thai còn sót và các sản phẩm viêm, nhiễm trùng ra ngoài cơ thể qua âm đạo. Thời gian chảy sản dịch sau sinh (PVD) bình thường ở heo nái có thể dao động từ 3 đến 4 ngày. Các nghiên cứu trước đây báo cáo rằng thời gian PVD trung bình là 4,3 ngày (Nam, 2020) và 4,5 ngày (Nam, 2019a). Trong điều kiện tử cung bị nhiễm trùng, thời gian PVD có thể kéo dài; đã có ghi nhận khoảng 17,4–23,7% nái có PVD kéo dài trên 6 ngày (Waller et al., 2002). PVD kéo dài trên 6 ngày được chứng minh làm giảm tỷ lệ thụ thai, tỷ lệ đẻ, tổng số con sinh ra và số con sống khi sinh (Waller et al., 2002). Thời gian PVD tăng còn kéo dài khoảng cách từ cai sữa đến lần phối đầu tiên (Nam, 2019a), đồng thời có xu hướng làm tăng tỷ lệ tiêu chảy ở heo con đang bú (Nam, 2019b).

              Một số yếu tố ảnh hưởng đến PVD ở heo đã được xác định trong các nghiên cứu trước. Tummaruk và Sang-Gassanee (2013) phát hiện rằng nái ở lứa đẻ 5–7 có nguy cơ cao hơn trong tình trạng chảy sản dịch sau sinh so với nái ở lứa 2–4. Ngoài ra, qua phân tích hồi quy logistic đa biến, các yếu tố như can thiệp lấy thai, thời gian đẻ, số lứa đẻ, số con chết khi sinh và thân nhiệt sau sinh đều có liên quan đến hiện tượng PVD kéo dài (Nam, 2020). Tuy nhiên, hiện chưa có thông tin về việc dự đoán PVD ở heo nái.

              Khi có thể dự đoán được PVD, các biện pháp điều trị và chăm sóc phù hợp có thể được áp dụng cho những nái có nguy cơ cao nhằm rút ngắn thời gian chảy sản dịch sau sinh, từ đó giảm thiểu các tác động bất lợi của PVD kéo dài lên năng suất sinh sản của heo nái (Waller et al., 2002). Do đó, nghiên cứu này được tiến hành với mục tiêu dự đoán thời gian chảy sản dịch sau sinh ở heo nái.

Mục đích nghiên cứu:

              Nghiên cứu này được tiến hành với mục tiêu dự đoán thời gian chảy sản dịch sau sinh ở heo nái. Từ đó, gợi ý rằng các biện pháp điều trị sau sinh thích hợp như dùng kháng sinh, thuốc kháng viêm và chăm sóc cần được áp dụng cho những nái có nguy cơ cao bị kéo dài thời gian chảy sản dịch sau sinh nhằm rút ngắn giai đoạn này.

Phương pháp nghiên cứu:

Động vật thí nghiệm

              Nghiên cứu sử dụng 204 nái Landrace × Yorkshire nhiều lứa, trung bình 22 tháng tuổi, tại một trại heo thương mại ở tỉnh Bắc Ninh, Việt Nam. Heo nái mang thai được nuôi trong ô nái đơn dài 220 cm, rộng 60 cm. Khoảng một tuần trước khi đẻ, heo nái được chuyển sang ô đẻ đơn, gồm chuồng đẻ ở giữa cho nái và hai bên là khu vực úm heo con. Chuồng đẻ có kích thước tương tự ô nái đơn, sàn đều bằng bê tông có khe hở. Khu úm được lát nhựa, một góc có đèn hồng ngoại sưởi trong tuần đầu sau sinh. Nhiệt độ phòng nái mang thai và phòng đẻ dao động 23–30°C, khu úm heo con 32–35°C, độ ẩm 70–85%. Heo nái được tắm 2 lần/ngày.

Trong thời kỳ mang thai, heo nái được cho ăn 2 lần/ngày bằng thức ăn viên công nghiệp, khẩu phần thay đổi theo giai đoạn và thể trạng, từ 1,8–3,5 kg/ngày. Ở giai đoạn 1–84 ngày mang thai: 1,8–2,5 kg; giai đoạn 85–110 ngày: 3,0–3,5 kg; từ ngày 111 đến khi đẻ: giảm dần khẩu phần. Sau khi đẻ, nái được cho ăn tăng dần đến mức tự do, thường từ ngày 6 sau sinh. Nguồn nước cung cấp qua hệ thống núm uống. Heo nái được tiêm phòng: dịch tả heo cổ điển (tuần 10 mang thai), lở mồm long móng (tuần 12 mang thai), PRRS (2 lần/năm), bệnh Aujeszky (2 lần/năm), và parvovirus (10 ngày sau sinh). Chỉ các nái khỏe mạnh, ăn uống bình thường mới được đưa vào nghiên cứu, thời gian tiến hành từ tháng 2 đến tháng 7 năm 2020.

Thu thập dữ liệu

              Các dấu hiệu tiết sữa và sưng âm hộ cần theo dõi để lên kế hoạch giám sát đẻ. Tất cả các ca đẻ đều được giám sát liên tục. Ghi nhận các chỉ tiêu: số lứa đẻ, thời gian mang thai, kích thước lứa (tổng số con), số con chết khi sinh (bao gồm chết lưu và thai khô), thời gian đẻ và can thiệp lấy thai. Thai chết lưu và thai khô không được phân biệt mà gộp chung. Can thiệp lấy thai được thực hiện khi khoảng cách giữa hai heo con vượt quá 45 phút, một nái có thể được can thiệp nhiều lần. Tất cả nái được tiêm oxytocin (20 IU/ngày) trong 3–5 ngày sau sinh. Ngoài ra, toàn bộ nái sau sinh được tiêm 3 liều kháng sinh (Amoxicillin trihydrate, Amoxisol L.A. Bayern, Việt Nam, 15 mg/kg) vào bắp cổ, cách nhau 2 ngày, bắt đầu từ khi đẻ xong (Nam, 2020). Dịch âm đạo được kiểm tra 2 lần/ngày (sáng và chiều) trước khi vệ sinh chuồng cho đến khi không còn dịch trong hai lần quan sát liên tiếp. Thời gian PVD (ngày) được tính từ lúc sinh con cuối cùng đến lần đầu tiên quan sát thấy âm đạo khô hoàn toàn.

Kết quả chính:

              Kết quả cho thấy thời gian chảy sản dịch sau sinh trung bình là 3,3 ± 1,6 ngày. Phân tích hồi quy tuyến tính đa biến cuối cùng xác định ba yếu tố có ý nghĩa nhất trong việc dự đoán thời gian chảy sản dịch sau sinh là: can thiệp lấy thai, thời gian đẻ và số heo con chết khi sinh. Cả ba yếu tố này đều có mối tương quan thuận với thời gian chảy sản dịch sau sinh. Việc rút ngắn thời gian đẻ, có khả năng giảm số heo con chết khi sinh, và giảm tỷ lệ can thiệp lấy thai có thể là những biện pháp giúp giảm thời gian chảy sản dịch sau sinh.

Kết luận:

              Nghiên cứu này cho thấy thời gian tiết sản dịch sau sinh ở nái có thể được dự đoán, và ba yếu tố quan trọng nhất để dự đoán là: can thiệp lấy thai bằng tay, thời gian đẻ, và số lượng thai chết lưu. Việc dự đoán thành công PVD sẽ mang lại lợi ích cho nông hộ và bác sĩ thú y trong việc xác định các nái có nguy cơ cao bị tiết dịch sau sinh kéo dài, từ đó cung cấp các biện pháp điều trị và chăm sóc kịp thời nhằm rút ngắn thời gian PVD.

Từ khóa: Farrowing duration, Manual  extraction, Sow, Vaginal discharge

Link bài viết:
prediction-of-postpartum-vaginal-discharge-duration-in-sows