Bệnh ORT trên gia cầm

Bệnh ORT hay còn được gọi với những tên khác là bệnh viêm mũi, khí quản, phổi, túi khí, bệnh viêm phổi hóa mủ. Đây là bệnh khá phổ biến ở gia cầm, đặc biệt là ở gà. Điều trị bằng các thuốc kháng sinh thông thường như: Tylosin, Cephacilin, Enrocin…bệnh có giảm nhưng không đáng kể.

Bệnh thường xảy ra vào mùa xuân, mùa hè và thời điểm giao mùa, khi độ ẩm không khí tăng cao. Gà thịt thường mắc lúc 3 – 6 tuần, các loại gà khác thường từ 6 tuần tuổi trở lên. Tỷ lệ nhiễm bệnh cao từ 50 – 100% nhưng tỷ lệ chết và loại thải thấp 5 – 20%.

Bệnh ORT là gì?

ORT trên gà là bệnh hô hấp cấp tính do vi khuẩn G- , hình que có tên là Ornithobacterium rhinotracheale gây ra. Vi khuẩn tác động trực tiếp lên đường hô hấp và phổi với các biểu hiện điển hình như: Gà khó thở, khẹc, ngáp, ho, chảy nước mắt mũi, phổi viêm có mủ và bã đậu hình ống.

Bệnh có tính chất lây lan nhanh, đặc biệt là ở những vùng chăn nuôi gà tập trung.

Bệnh thường xảy ra vào mùa xuân, mùa hè và thời điểm giao mùa, khi độ ẩm không khí tăng cao.

Đường lây truyền bệnh

Bệnh ORT có thể gặp trên gà, gà tây ở mọi lứa tuổi, hay gặp nhất là ở lứa tuổi gà giò và gà lớn. Gà thịt thường mắc lúc 3 – 6 tuần, các loại gà khác thường từ 6 tuần tuổi trở lên.

Ở gà bệnh, vi khuẩn Ornithobacterium rhinotracheale thường có trong phổi; Túi khí, chất tiết của đường hô hấp như nước mũi, nước mắt; Dịch nhầy khí quản và đặc biệt có nhiều trong cục mủ ở hai phế quản gốc.

Bệnh lây truyền từ gà bệnh cho gà khỏe qua tiếp xúc trực tiếp. Gà bệnh hắt hơi làm chất tiết đường hô hấp chứa mầm bệnh bắn ra ngoài không khí, từ đó lây cho gà khỏe bằng đường hít thở. Ngoài ra, con đường lan truyền bằng gió, dụng cụ chăn nuôi, xe vận chuyển, động vật mang mầm bệnh và con người cũng đóng vai trò lớn trong sự truyền lây của bệnh ORT.

Vi khuẩn xâm nhập vào cơ thể gà chủ yếu qua đường hô hấp, sinh sôi và phát triển ở niêm mạc đường hô hấp sau đó đến cư trú ở cơ quan đích là phổi, hai phế quản gốc và gây nên bệnh tích đặc trưng của bệnh ORT ở đó.

Triệu chứng

ORT là bệnh hô hấp cấp tính, thời gian nung bệnh ngắn, 1 – 3 ngày. Giai đoạn đầu thường chỉ thấy gà bệnh có triệu chứng hen nhẹ, thở khò khè và đôi lúc hắt hơi, vảy mỏ. Bệnh tiến triển rất nhanh, sau 1 – 2 ngày thấy gà giảm ăn, ủ rũ và ngày càng khó thở. Ðặc biệt ở giai đoạn này có thể quan sát thấy gà bệnh há mỏ để thở, thở đớp khí, có tiếng rít và ngáp. Sở dĩ gà có triệu chứng này là do bên trong khí quản và hai phế quản gốc có cục mủ bít kín khiến đường hô hấp hẹp đi nhiều, gây khó thở, dẫn tới chết.

Tỷ lệ mắc của bệnh ORT rất cao, 50 – 100%, tỷ lệ chết thường là 5 – 20%. Thiệt hại chủ yếu do bệnh gây ra là làm cho gà gầy yếu, lớn chậm, tỷ lệ đồng đều kém, tăng cao tỷ lệ loại thải và chi phí chăn nuôi. Bệnh thường ghép với một số bệnh khác như: Newcastle (gà rù), E.coli, CRD… làm biểu hiện của bệnh càng trầm trọng.

– Gà khó thở, rướn cổ thở, ngáp gió, ho, lắc đầu, vẩy mỏ, khẹc, …

– Gà sốt rất cao, ủ rũ, giảm ăn.

– Chảy nước mắt mũi, sưng mặt.

Bệnh tích

Bệnh tích của bệnh ORT tập trung ở đường hô hấp, các cơ quan khác hầu như không thấy biến đổi về mặt đại thể. Mổ khám gà chết ta thường quan sát thấy phổi bị viêm hóa mủ tập trung hoặc rải rác trên bề mặt, bên trong khí quản và hai phế quản gốc có mủ nhầy đặc hoặc rắn tùy theo giai đoạn và mức độ nặng nhẹ của bệnh. Túi khí viêm, có bọt khí và có thể có mủ màu vàng bên trong. Khí quản bình thường hoặc chỉ bị xung huyết nhẹ, có dịch nhầy trên bề mặt, màu sắc vẫn trong bình thường.

– Phổi bị viêm hóa mủ

– Bên trong khí quản, 2 phế quản chính và phổi có bã đậu, mủ, dịch mủ.