Phần lớn các vấn đề sức khỏe và chi phí thú y liên quan đối với bò sữa xảy ra trong vòng 30 ngày đầu sau khi cho sữa. Quản lý và thức ăn cho bò giai đoạn cạn sữa có thể có tác động lớn đến nguy cơ bệnh tật cho bò sữa khi đẻ. Bổ sung đầy đủ năng lượng, chất xơ, protein và một số khoáng chất, đặc biệt là canxi và những khoáng chất ảnh hưởng đến sự hấp thụ và chuyển hóa canxi, rất quan trọng trong việc giảm nguy cơ mắc các bệnh chuyển hóa. Những lời khuyên về việc cho bò ăn thức ăn tươi để cải thiện năng suất và giảm nguy cơ hạ cali huyết,nhiễm toa (axit dạ cỏ) ở động vật nhai lại và nhiễm xeton (ketosis) đã được cung cấp trong các bài báo khác của loạt bài về dinh dưỡng.
Một chứng rối loạn khác chủ yếu xảy ra trong vòng hai tuần đầu tiên sau khi đẻ đó là “lệch dạ múi khế” (DA – Displaced Abumasum). Dạ múi khế là một trong bốn ngăn của dạ dày động vật nhai lại. Nó được gọi là “dạ dày thật” và nằm ngay bên trong khoang bụng ở mặt dưới của động vật.
Ba tình huống có thể góp phần làm cho dạ múi khế bị dịch chuyển:
- Bò mất khoảng 10% đến 12% trọng lượng cơ thể lúc đẻ do bị thoát ra trọng lượng của bê, nhau thai và dịch lỏng. Những tổn thất này trong khoang bụng kết hợp với lượng vật chất khô bò ăn vào thấp sau sinh (không lấp đầy dạ cỏ) dẫn đến các cơ quan thay đổi.
- Việc tăng cường thức ăn tinh trong khẩu phần để đáp ứng nhu cầu năng lượng ngày càng tăng của quá trình tiết sữa, kết hợp với việc bề mặt lông nhũ trong dạ cỏ không hấp thu hết, dẫn đến tăng lượng axit béo bay hơi đến dạ múi khế và có thể làm giảm khả năng vận động của dạ múi khế.
- Hạ thấp lượng canxi trong máu, dù lâm sàng (thường là 5% bò) hay cận lâm sàng (khả năng trung bình lên tới 50%), làm giảm trương lực của cơ trơn giúp giữ dạ múi khế tại chỗ. Tất cả các tình huống này thường xảy ra, có khả năng không độc lập với nhau, với bò sau khi sinh có thể góp phần lớn vào rủi ro cho DA.
Những con bò có nguy cơ bị DA cao hơn sau khi đẻ có lượng vật chất khô ăn vào thấp, điểm số tình trạng cơ thể cao và nồng độ axit béo không ester hóa trong máu cao trước khi sinh. Tất cả các con bò lúc đẻ đều ăn kém sẽ làm tăng nguy cơ mắc DA. Tuy nhiên, khi bò đẻ trong thời gian nóng và ẩm của mùa hè, lượng ăn vào sau khi đẻ thậm chí còn thấp hơn so với bò đẻ vào mùa thu và mùa đông.
Còn trường hợp DA ở bò sữa ngoài 60 ngày sau sinh thường xảy ra do các yếu tố nào ?
- Độ pH dạ cỏ thấp do thay đổi chất lượng thức ăn thô xanh hoặc kích thước thức ăn
- Khẩu phần ăn không đủ chất xơ
- Thay đổi nhân sự chịu trách nhiệm trộn thức ăn
- Trục trặc của máy trộn thức ăn hoặc có vấn đề về việc cân thức ăn
Chẩn đoán DA
Khoảng 80% đến 90% các trường hợp DA kết quả khi dạ múi khế di chuyển lên phía bên trái của con vật. Tuy nhiên, dạ múi khế lệch phải có thể xảy ra và thậm chí hiếm gặp có thể xảy ra dạ múi khế xoắn phải (dạ múi khế nổi lên ở phía bên phải và sau đó xoắn lại). Trường hợp thứ hai này rất nghiêm trọng vì nguồn máu cung cấp cho dạ dày bị hạn chế nghiêm trọng.
Các triệu chứng phổ biến của DA bao gồm giảm lượng thức ăn, giảm năng suất sữa, giảm bài tiết phân và nhiễm ceton (ketosis) do thiếu thức ăn, tuy nhiên, dấu hiệu chính xác là nghe thấy tiếng ping bằng ống nghe khi bên cạnh của con vật bị đập mạnh. Khi dạ múi khế di chuyển, nó sẽ chứa đầy khí, và tiếng ping là từ âm thanh đập dội lại từ cơ quan chứa đầy không khí. Khi tình trạng được chẩn đoán, bác sĩ thú y có thể tiến hành phẫu thuật hoặc cuộn con vật lại để đưa dạ múi khế về vị trí cũ.
Tác động của DA
Chi phí chính liên quan đến DA là do mất sản xuất sữa. Trong một nghiên cứu của Đại học Guelph, những con bò có DA sản xuất ít hơn khoảng 280kg sữa trong suốt thời kỳ khai thác sữa mà DA xảy ra so với những con bò không có DA. Một nghiên cứu của Đại học Cornell cho thấy sự mất sữa thậm chí còn nhiều hơn – lượng sữa ít hơn khoảng 540kg của những con bò có DA từ khi đẻ đến 60 ngày sau khi chẩn đoán DA.
Các chi phí bổ sung bao gồm phí thú y và các bệnh liên quan khác (ví dụ: ketosis). Trong một nghiên cứu, 30% trường hợp mất sữa xảy ra trước khi chẩn đoán bệnh; do đó, phát hiện sớm trong rất quan trọng. Cả mất sữa do DA và nguy cơ bò bị loại khỏi đàn sau khi có DA tăng theo số lượng tiết sữa. Mục tiêu là giảm 4% tỷ lệ mắc DA trong một đàn bò sữa.
Tóm lược
Bệnh lệch dạ múi khế (DA) là một bệnh thường gặp ở bò sữa, nhưng nếu được nuôi dưỡng và quản lý cẩn thận, tỷ lệ mắc bệnh trên đàn bò sữa có thể được duy trì dưới 5%. Cho ăn trước khi đẻ 20 ngày theo chế độ khẩu phần như bò vắt sữa để duy trì lượng ăn vào ổn định để tránh giảm lượng lớn nguy cơ bị DA sau khi đẻ.
Cung cấp một chế độ ăn uống cân bằng (đặc biệt là về chất xơ và năng lượng) sau khi sinh và có chỗ nằm rộng rãi và không gian nghỉ ngơi sẽ làm giảm nguy cơ mắc DA. Khi DA xảy ra sau 60 ngày khai thác sữa, tốt nhất là nên xem xét chất xơ và kích thước thức ăn, hoạt động thích hợp của máy trộn thức ăn và cân, và quy trình cho ăn của nhân viên. Giảm rủi ro đối với DA cải thiện sức khỏe và hạnh phúc của bò, tăng lượng sữa bán ra và giảm chi phí thú y.